Sự Vững Tin

Teaching Legacy Letter
*First Published: 2006
*Last Updated: tháng 12 năm 2025
14 min read
Nếu bạn có thể thuyết phục mọi người rằng nền kinh tế của đất nước chúng ta sẽ sụp đổ, và bạn có thể làm cho mọi người cứ bàn về vấn đề đó, bạn nghĩ kết quả sẽ như thế nào? Nền kinh tế sẽ sụp đổ! Lý do đơn giản là nền kinh tế của chúng ta có một nền tảng thiết yếu: sự tin tưởng. Điều tương tự cũng đúng với tất cả các hệ thống tương tự - tài chính, chính trị hay thuộc linh: nếu sự tin tưởng bị hạ thấp, nhất định sẽ dẫn đến thảm họa.
Trong bài học này, tôi muốn nghiên cứu ba chủ đề liên quan đến sự vững tưởng: sự vững tin đối với Đức Chúa Trời, sự tin tưởng đối với các tín hữu, và sự cảnh báo đối với việc từ bỏ lòng tin của chúng ta.
Sự Vững Tin Nơi Đức Chúa Trời
Tôi muốn xem xét nhiều ví dụ về sự vững tin đối với Đức Chúa Trời, trước tiên là từ trong Cựu Ước và sau đó là trong Tân Ước. Nếu bạn đến với những phần Kinh thánh này với đức tin, tôi thực sự tin rằng bạn sẽ tràn đầy lòng vững tin đối với Chúa. Một lưu ý đặc biệt về sự vững tin và sự chiến thắng được vang lên trong những lời mở đầu của Thi Thiên 27.
“Đức Giê-hô-va là ánh sáng và là sự cứu rỗi của tôi, tôi sẽ sợ ai? Đức Giê- hô-va là đồn lũy của mạng sống tôi, tôi sẽ hãi hùng ai? Khi kẻ ác và quân thù tấn công tôi, chúng muốn ăn tươi nuốt sống tôi thì chúng đều vấp ngã. Dù một đạo binh đóng đối diện với tôi, lòng tôi sẽ chẳng sợ; dù giặc giã nổi lên chống lại tôi, khi ấy tôi vẫn vững tin nơi Chúa...” (câu 1-3)
Bí quyết chiến thắng của Đa-vít trong suốt cuộc đời ông là sự vững tin nơi Đức Chúa Trời. Cho dù có chuyện xảy ra đi nữa, cho dù kẻ thù của ông đến chống lại ông ta để ăn tươi nuốt sống ông, hay là quân thù phát động chiến tranh chống lại ông, thì ông vẫn hoàn toàn vững tin nơi Đức Chúa Trời. Trong Châm ngôn 3:23-26 chúng ta tìm thấy một bức tranh tuyệt đẹp về lòng tin.
“Con sẽ bước đi vững vàng trong đường lối con, và chân con không vấp ngã. Khi con nằm, chẳng có điều sợ hãi. Phải, con sẽ nằm và được ngủ ngon giấc. Đừng sợ sự kinh khiếp xảy đến thình lình, cũng đừng sợ sự tàn hại xảy đến cho kẻ ác. Vì Đức Giê-hô-va là nơi nương cậy của con. Ngài sẽ gìn giữ chân con khỏi cạm bẫy.”
Kinh thánh luôn dạy rằng dân sự của Đức Chúa Trời không cần phải sợ hãi. Đó là lý do tại sao tôi luôn chuẩn bị trước một dạy dỗ hoặc lời tiên tri về sự sợ hãi cho dân sự của Đức Chúa Trời. Ở đây, Đức Chúa Trời đang phán bảo rằng: Khi con gặp rắc rối do kẻ ác đem đến, đó không phải là vấn đề của con. Nếu con không phải là kẻ ác, thì điều ác sẽ không thể tấn công con được.” Câu 26 cho chúng ta biết nơi để tìm thấy lòng tin: “Vì Đức Giê-hô-va là nơi nương cậy của con. Ngài sẽ gìn giữ chân con khỏi cạm bẫy.” Chúa không hề thay đổi. Ngài luôn tể trị. Ngài không bao giờ bối rối. Ngài không bao giờ gặp phải những tình huống bất ngờ hay khẩn cấp. Ngài luôn có câu trả lời.
Châm ngôn 14:26 chép: “Trong sự kính sợ Đức Giê-hô-va có nơi nương cậy vững chắc, và con cái Ngài sẽ được một nơi ẩn náu.” Nếu chúng ta có thái độ đúng đắn đối với Đức Chúa Trời, thì chúng ta không cần phải lo lắng. Ngài là nơi trú ẩn và là nơi chúng ta được bảo vệ.
Trong Cựu Ước, Ê-sai đã nói:
“Chúa là Đức Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra- ên phán: ‘Nhờ quay trở lại và yên nghỉ, các ngươi sẽ được giải cứu; nhờ yên lặng và tin cậy, các ngươi sẽ được sức mạnh. Nhưng các ngươi đã không muốn như thế! Các ngươi nói: ‘Không, chúng tôi sẽ cưỡi ngựa chạy trốn!’ Vì vậy, các ngươi sẽ phải chạy trốn. ‘Chúng tôi sẽ cưỡi ngựa phóng nhanh!’ Vì vậy, những kẻ truy đuổi các ngươi cũng sẽ phóng nhanh!” (Ê-sai 30:15-16)
Đức Chúa Trời đang kêu gọi dân sự của Ngài quay trở lại với Ngài, để được yên nghỉ, và tin cậy nơi Ngài. Những ai khước từ lời mời gọi của Đức Chúa Trời đến sự yên lặng, tin cậy và vững tin sẽ sớm thấy rằng khó khăn sẽ bủa vây họ, cho dù họ có những cố gắng để thoát ra khỏi những điều đó. Hết lần này đến lần khác, điều này đã trở nên rất rõ ràng trong lịch sử dân Y-sơ-ra-ên. Khi dân sự của Đức Chúa Trời vâng lời Ngài, kẻ thù của họ bị đánh bại và Y-sơ-ra-ên được sống trong hòa bình. Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên nương cậy nơi sức riêng của mình, họ đã bị đánh bại và cuối cùng bị tan lạc khắp nơi.
Trong Tân Ước, từ được dịch là sự vững tin trong tiếng Hy Lạp là một từ đầy sức mạnh. Nó đặc biệt liên quan đến sự vững tin trong lời nói. Trong cách dùng thông thường của tiếng Hy Lạp, từ này biểu thị “quyền tự do ngôn luận”, hoặc quyền nói những gì bạn nghĩ - gần như hoàn toàn tương đương với quyền tự do ngôn luận được đảm bảo trong Hiến pháp Hoa kỳ. Nó mang ý nghĩa là bạn không cần phải im lặng về những gì bạn tin. Bạn có một quyền tuyệt đối để nói ra nó và không ai có thể buộc bạn im lặng được. Nó cũng giống như một trong những “dự luật về nhân quyền”.
Trong Tân Ước phần Kinh thánh đầu tiên chúng ta sẽ xem qua liên quan đến lòng tin cậy nơi Đức Chúa trong sự cầu nguyện.
“Thưa anh em yêu dấu, nếu lòng của chúng ta không lên án chúng ta thì chúng ta được vững tâm (vững tin) đến với Đức Chúa Trời; và bất cứ điều gì chúng ta xin đều nhận được, vì chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài và làm điều đẹp lòng Ngài.” (I Giăng 3:21-22)
Một lần nữa chú ý rằng: đòi hỏi cơ bản để những lời cầu nguyện của bạn được nhậm là sự vững tin. Đừng để ma quỷ cướp đi lòng tin của bạn. Hãy thực thi quyền cầu nguyện và quyền tự do kêu cầu bởi với Chúa Jesus đã mua chuộc điều đó cho bạn. Điều này được viết trong hiến pháp của bạn.
Một sự tấn công của kẻ thù khác khiến Cơ-đốc nhân gặp nhiều khó khăn là sự định tội. Rô-ma chương 8 cho chúng ta biết rằng đời sống thuộc linh là một đời sống của tự do và tự quyết, không có bóng của sự đoán phạt. Bạn không thể bước vào hay sống đời sống được trình bày trong Rô-ma 8 nếu bạn sống dưới sự định tội. Yêu cầu thiết yếu này được nêu ra trong câu mở đầu của chương này: “Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ, là kẻ không sống theo xác thịt, nhưng sống theo Thánh Linh.”
Sự định tội là rào cản lớn nhất để đến với sự tự do, vui mừng, bình an và quyền năng của Thánh Linh. Nhưng một thái độ đúng đắn đối với lòng tin sẽ khiến chúng ta vượt qua chướng ngại này trong cuộc sống của chúng ta.
Sự Tin Tưởng Đối Với Anh Chị Em Trong Chúa
Khía cạnh thứ hai của lòng vững tin là sự tin tưởng đối với những tín hữu khác. Có lẽ chúng ta sẽ hoàn toàn đồng ý với nhau rằng điều này thậm chí còn khó hơn việc tin cậy nơi Đức Chúa Trời.
Điều thú vị là từ ngữ lòng vững tin trong được dịch ra trong tiếng Anh xuất phát từ những từ Hy Lạp khác nhau, tùy thuộc vào lòng tin đó là dành cho Đức Chúa Trời hay dành cho con người. Vì lí do khá rõ ràng này, Đức Chúa Trời không mong đợi chúng ta có cùng một lòng tin đối với các tín hữu như lòng tin dành cho Ngài, nhưng Ngài mong đợi chúng ta phải có sự tin tưởng. Mặc dù từ ngữ tin tưởng (trust) gần nghĩa hơn với từ gốc Hy Lạp diễn tả thái độ chúng ta nên có đối với các tín hữu khác, nhưng bản dịch King James Version lại sử dụng từ lòng vững tin (confidence).
Chúng ta có thể thấy rõ từ các thư tín của Phao-lô rằng ông có cùng một sự khó khăn đối mặt với con người như chúng ta trong ngày hôm nay. Những tín hữu ở hội thánh Cô-rinh-tô say sưa nơi bàn tiệc của Chúa; họ đã lạm dụng các ân tứ của Đức Thánh Linh; một người đã nằm chung với vợ của cha mình; họ cần hướng dẫn về cách chi tiêu. Thực ra mà nói, họ đã có rất nhiều vấn đề! Tuy nhiên tôi muốn bạn chú ý đến những gì Phao-lô nói với những người trong II Cô-rinh-tô sau ông đã thẳng thắn chỉnh sửa họ trong lá thư trước của mình.
“Tôi đã viết cho anh em như thế, để khi đến thăm, tôi sẽ không đau buồn bởi chính những người đáng ra phải làm cho tôi vui. Vì tôi tin tưởng rằng tất cả anh em đều lấy niềm vui của tôi làm niềm vui của anh em.” (II Cô-rinh-tô 2:3)
Đó là một lời tuyên bố lạ lùng khi bạn thấy những vấn đề ở những người này. Phao-lô nói rằng ông tin tưởng họ trong tất cả mọi sự! Đối với tôi, điều đó cho thấy rằng, Phao-lô một người khổng lồ của đức tin.
Tôi tin rằng khả năng để tin tưởng người khác là một dấu hiệu của sự trưởng thành thuộc linh. Tôi cũng tin rằng nếu tôi thể tin tưởng những người khác, thì nó cũng cho họ ích lợi nào đó. Nếu cha mẹ tin tưởng nơi con cái, điều đó khiến chúng chúng tự tin, nếu cha mẹ luôn nghi ngờ và chỉ trích chúng, điều đó sẽ khiến chúng tự ti và sinh ra sự bất an.
Những bậc cha mẹ nào luôn chỉ trích và không bao giờ khen ngợi con của họ có thể nghĩ rằng họ thông minh. Nhưng việc chỉ ra lỗi lầm của một người không chứng minh rằng bạn thông minh, bởi vì chúng ta rất dễ dàng nhận thấy lỗi lầm của một người. Việc có sự tin tưởng vào con người thì khó hơn nhiều hơn nhiều so với việc là nghi ngờ hoặc chỉ trích họ, và điều đó đòi hỏi quyền năng của Thánh Linh.
Hãy cùng xem một số phần Kinh Thánh khác nó về sự tin tưởng anh chị em trong Chúa.
“Trong Chúa, tôi tin chắc rằng anh em sẽ không suy nghĩ khác với tôi; nhưng kẻ quấy rối anh em, bất kể là ai, sẽ phải bị hình phạt.” (Ga-la-ti 5:10)
“Tôi tin chắc rằng Đấng đã bắt đầu làm việc lành trong anh em sẽ làm trọn việc ấy cho đến ngày của Đấng Christ Jêsus.” (Phi-líp 1:6)
Bạn có tin như vậy đối với những anh chị em trong hội thánh của mình không? Bạn có thực sự tin rằng Chúa sẽ làm trọn những gì Ngài đã bắt đầu làm trong đời sống của mỗi một người trong số họ không? Nếu bạn tin như vậy, thì bạn sẽ cảm thấy khác biệt về những người mà bạn đang ở trong mối thông công với họ.
Bạn vẫn có thể nhận thức được vấn đề, nhưng bạn sẽ nhìn thấy chúng trong một bối cảnh khác. Tôi luôn tin rằng Chúa không bao giờ bắt đầu bất cứ điều gì Ngài không thể làm thành. Tôi áp dụng điều này cho cá nhân tôi. Khi Chúa chấp nhận tôi, Ngài cũng đã chấp nhận rất nhiều vấn đề của tôi. Tuy nhiên, Ngài đã chấp nhận trong lòng tin rằng Ngài có thể giải quyết những vấn đề đó.
Khi tôi mới được cứu, vì là một giáo sư, học giả và triết gia, tôi thực sự nghĩ rằng Chúa thật may mắn khi có được tôi! Nhưng khi Chúa bắt đầu sửa sai tôi, tôi mới nhận ra rằng sự thật không phải như vậy. Tôi nhận thấy rằng khi Chúa tiếp nhận tôi, Ngài đã phải chấp nhận hết những rắc rối của tôi mà khiến Ngài phải vô cùng kiên nhẫn và khôn ngoan để có thể xử lý được. Tôi tạ ơn Chúa rằng này hôm nay tôi chia sẻ về lòng tin của Ngài rằng Ngài sẽ hoàn thành những gì Ngài đã khởi đầu - ngay cả trong tôi! Phao-lô đã có một lời khẳng định đáng chú ý khác trong II Tê- sa-lô-ni-ca 3:3-4:
“Chúa là thành tín, Ngài sẽ làm cho anh em mạnh mẽ và bảo vệ anh em khỏi kẻ gian ác. Trong Chúa, chúng tôi tin chắc rằng anh em đang và sẽ làm những việc chúng tôi đã dạy bảo.”
Có bao nhiêu mục sư có thể nói như vậy về những người mà họ đang lãnh đạo? Nếu mục sư tin tưởng nơi dân sự, điều đó sẽ thúc đẩy và khích lệ họ trong Chúa. Nhưng nếu tất cả những gì mục sư nhìn thấy là những rắc rối của họ, họ sẽ sớm trở nên tự ti và chán nản.
Sự tin tưởng sẽ giải phóng những người mà bạn tin tưởng. Jim Moore đã từng nói: “Khi một người đàn ông cãi nhau với vợ mình, vũ khí nguy hiểm nhất đối với cô ấy chính là sự lên án.” Hỡi những người chồng, khi bạn lên án vợ mình, bạn đang đặt mình vào rắc rối mà bạn sẽ phải đối mặt sau này. Nhưng nếu bạn khích lệ họ bằng sự tin tưởng của bạn dành cho họ, khi đó bạn đang bạn đưa họ đến một nơi của sự bình an và bảo đảm.
Cảnh Báo Về Sự Mất Lòng Tin
Bây giờ chúng ta hãy nói đến những cảnh báo cho việc từ bỏ lòng vững tin của chúng ta, tất cả đều được nói đến trong thư tín Hê-bơ-rơ. Vấn đề lớn nhất của người Hê-bơ-rơ là họ bắt đầu bằng đức tin, nhưng rồi họ lại trở lại với việc làm. Họ bắt đầu trong sự tự do do của Thánh Linh, nhưng họ trở lại với tôn giáo, lễ nghi và quy tắc. Và không có đủ cơ sở cho lòng tin trong những điều này.
Có năm cảnh báo khác nhau trong thư tín này, tất cả đều viết cho tín hữu. Chúng ta sẽ xem xét ba trong số năm cảnh báo đó. Chúng nằm trong số những cảnh báo mạnh mẽ nhất được tìm thấy trong Tân Ước. Thực ra, tác giả nói như thế này: “Đừng từ bỏ lòng vững tin, đừng trở hình thức tôn giáo, vì như vậy bạn sẽ không thể nào vui hưởng Chúa, và đừng trở nên quá nghiêm trọng đến nỗi tôn giáo của bạn không còn là niềm vui.” Chúng ta có thể quá bận bịu làm những gì chúng ta nên làm đến nỗi chúng ta đánh mất đi sự thích thú khi làm việc đó.
Một trong những tài sản lớn nhất của đời sống thuộc linh là sự tự do. Chúng ta không thể để mất nó. Khi tôi nhìn lại cuộc đời mình, tôi khám phá ra rằng hầu hết các quyết định chính tôi đưa ra đã đều rất tình cờ. Điều đó không làm cho tôi trở nên có vẻ thuộc linh hơn, nhưng đó là sự thật. Ví dụ, việc tôi chuyển đến sống tại Hoa Kỳ vào năm 1963, một bước ngoặt trong cuộc đời tôi, là việc xảy ra rất tình cờ.
Tất cả các kế hoạch và sắp xếp mà chúng ta có thể đưa ra là chưa đủ; những dự tính đó sẽ không khiến công việc được thực hiện. Các kế hoạch thực hiện đúng theo khả năng của con người chỉ đơn thuần tạo ra một Ích-ma-ên. Ích-ma-ên là điều tốt nhất mà Áp-ra-ham có thể có đượcnếu không có ân điển và quyền năng siêu nhiên của Đức Chúa Trời. Và Ích-ma-ên là chưa đủ tốt.
Một phép thử mà tôi đã dùng để xác định liệu rằng một việc nào đó có đến từ Chúa hay không là tôi xem thử nó được sinh ra theo một cách siêu nhiên hay không. Nếu đó chỉ là kết quả đơn thuần nằm trong kế hoạch và sự sắp xếp của tôi, tôi phải đặt câu hỏi rằng liệu nó có đến từ Đức Chúa Trời hay không. Tôi tin vào thực tế và sự làm việc, nhưng xuất phát của nó phải là từ trong sự siêu nhiên.
Đó là sự khác biệt giữa Ích-ma-ên và Y-sác. Ích-ma-ên sinh ra từ tự nhiên, nhưng Y-sác được sinh ra trong sự siêu nhiên. Y-sác là điều vượt quá suy nghĩ và khả năng của Áp-ra-ham, giống như trời so với đất vậy.
“Đức Giê-hô-va phán: “Ý tưởng Ta không phải là ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải là đường lối Ta. Vì các tầng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối Ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu.” (Ê-sai 55:8-9)
Chúng ta lên kế hoạch ở cấp độ dưới dất; Đức Chúa Trời có kế hoạch cấp độ trên trời. Điều đó không có nghĩa là kế hoạch cỉa Ngài sẽ không được thực hiện được trên đất; nhưng chúng ta phải chắc chắn kế hoạch đó là đến từ trên.
Những kết quả từ kế hoạch của con người sẽ không tồn dưới những áp lực mà chúng ta phải trải qua. Cuộc hôn nhân với vợ đầu tiên của tôi, Lydia, đã được sắp đặt cách siêu nhiên. Đức Chúa Trời đã chỉ cho tôi biết ai là người mà tôi sẽ kết hôn. Sau đó, Lydia và tôi phải chịu những áp lực mà chúng tôi sẽ không bao giờ chịu nỗi nếu cuộc hôn nhân của chúng tôi chỉ là kết quả bởi kế hoạch của con người.
Cuộc hôn nhân với người vợ thứ hai của tôi, là Ruth, cũng vậy. Ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho chúng tôi trong vấn đề này được Ngài bày tỏ cho mỗi người trong chúng ta một cách siêu nhiên và cá nhân. Hôn nhân tự thân nó đã là một sự sắp đặt siêu nhiên; nó không khởi đầu ở cấp độ con người. Hôn nhân là ý tưởng của Đức Chúa Trời, chứ không phải của con người. Đó là lý do tại sao hôn nhân điều thiêng liêng đến như vậy.
Có ba phần Kinh thánh cụ thể trong sách Hê-bơ-rơ nó đến những điều kiện được dựa trên lòng tin. Đầu tiên là Hê-bơ-rơ 3:6:
“Nhưng Đấng Christ thì trung tín như con trai quản trị nhà Đức Chúa Trời. Chúng ta là nhà của Ngài, miễn là chúng ta giữ vững lòng tin cậy và niềm tự hào về hi vọng của chúng ta cho đến cuối cùng.”
Chúng ta đã từng nói với nhau rằng lòng vững tin được thể hiện qua sự “tự do ngôn luận” – Đức Chúa Trời muốn chúng ta tự hào hay khoe mình về Ngài. Đó là điều kiện để trở thành hội thánh thật: miễn là chúng ta giữ vững lòng tin cậy và niềm tự hào về hi vọng của chúng ta cho đến cuối cùng.
Thứ hai, Hê-bơ-rơ 3:14 cho biết:
“Vì nếu chúng ta cứ giữ vững lòng tin quyết ban đầu của mình cho đến cuối cùng thì chúng ta được dự phần với Đấng Christ.”
Phần Kinh Thánh này cho thấy rằng chúng ta có được cứu rỗi hay không là dựa vào sự tin quyết cho đến cuối cùng của chúng ta. Trong thuật ngữ thần học truyền thống, điều này được gọi là “sự kiên trì của các thánh đồ”. Những ai không kiên trì thì không đủ tiêu chuẩn làm thánh đồ.
Cuối cùng, khi xem Hê-bơ-rơ 10:35-36, chúng ta thấy một tài liệu tham khảo lấy từ quân trường.
“Vậy, chớ bỏ lòng tin quyết của mình, vì nó sẽ đem lại phần thưởng lớn. Anh em cần phải kiên nhẫn để sau khi đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời thì nhận được điều đã hứa cho mình.”
Một trong những khí dụng chính của một người lính là cái khiên của anh ta. Văn chương Hy Lạp cho biết, sự nhục nhã lớn nhất đối với bất kỳ người lính nào đó là bỏ khiên và chạy khỏi chiến trường. Khi tác giả nói ở đây rằng: “Chớ bỏ...”, tôi tin rằng tác giả đang nghĩ về sự nhục nhã của việc bỏ lại cái khiên của bạn. Thực ra, ông đang muốn nói rằng: “Chớ bỏ lòng tin quyết của bạn, đó là cái khiên của bạn. Đừng bỏ nó đi vì sẽ có một phần thưởng lớn dành cho bạn nếu bạn cứ giữ nó.” Chúng ta cần phải giữ chặt cái khiên của lòng tin của chúng ta và cố gắng đừng bao giờ bỏ lại nói với bất cứ giá nào.
Nhìn về phía trước, chúng ta có thể thấy rằng tương lai rất thách thức và cũng rất đáng sợ. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, sự hòa bình đang bị đe dọa, suốt ngày chỉ là sự biến động và bất ổn. Nhưng vượt trên những điều đó, chúng ta là những Cơ-đốc nhân, chúng ta có một vị Vua, Đấng luôn có kế hoạch và câu trả lời cho hoàn cảnh của mỗi một chúng ta. Chính Ngài là Đấng đã phán rằng Ngài sẽ là chỗ trú ẩn của chúng ta trong lúc bão tố. Vương quốc mà Ngài cai trị không hề bị lay chuyển được và nền tảng chúng ta xây dựng trên đó không thể bị chuyển dời.
Vì vậy, chúng ta có thể đặt mình vào vị trí nhận lãnh mỗi một lời hứa được nói đến trong Châm ngôn 3:23-26. Đây là những lời hứa dành cho những ai đặt Chúa làm sự tin cậy của mình.
“Con sẽ bước đi vững vàng trong đường lối con, và chân con không vấp ngã. Khi con nằm, chẳng có điều sợ hãi; Phải, con sẽ nằm và được ngủ ngon giấc. Đừng sợ sự kinh khiếp xảy đến thình lình, Cũng đừng sợ sự tàn hại xảy đến cho kẻ ác; Vì Đức Giê-hô-va là nơi nương cậy của con, Ngài sẽ gìn giữ chân con khỏi cạm bẫy.”
Mã số: TL-L051-100-VIE









