Liệu Satan có phục hòa với Đức Chúa Trời?

Teaching Legacy Letter
*First Published: 2001
*Last Updated: tháng 12 năm 2025
11 min read
Là Cơ đốc nhân trong thế giới ngày nay, chúng ta thường không ý thức được rằng mình đang bị tấn công liên tục bởi một triết lý được gọi là chủ nghĩa nhân văn. Chủ nghĩa này cho rằng con người là vị thẩm phán tối hậu cho những lẽ thật đạo đức hoặc tâm linh. Chủ nghĩa này hứa hẹn một sự hòa giải trọn vẹn cuối cùng giữa Đức Chúa Trời và mọi thế lực của cái ác. Người ta tuyên bố rằng sự phục hòa này bao gồm cả Satan cùng các thiên sứ sa ngã, các quỷ cũng như bất kỳ ai hiện đang ở trong vị trí thù địch với Đức Chúa Trời. Sẽ không còn sự trừng phạt tuyệt đối, không hồi kết cho bất kỳ vật thọ tạo nào.
Nhấn mạnh vào sự phục hòa, học thuyết này có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với những Cơ đốc nhân chân thành và có thiện tâm. Tuy nhiên, học thuyết này đã sự bóp méo Kinh thánh. Chẳng hạn như, một phân đoạn thường được đề xuất là Cô-lô-se 1:19-20
“Vì Đức Chúa Trời đã được vui lòng nên khiến mọi sự đầy dẫy của mình chứa trong Ngài [Đấng Christ], và bởi huyết Ngài trên thập tự giá, thì đã đem lại bình an, khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời.”
Học thuyết này nhấn mạnh đến cụm từ trung tâm của câu Kinh-thánh này, “muôn vật nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời.” Tuy nhiên, chúng ta để ý thấy rằng cụm từ “muôn vật” được chỉ rõ ngay sau đó bằng cụm từ liền kề, “dưới đất trên trời.” Vậy thì, sự phục hòa được nói đến ở đây chỉ dành cho những vật ở dưới đất hoặc trên trời.
Hồ Lửa Nằm Ngoài Phạm Vi Của Sự Phục Hòa
Tiêu chí này trở nên có ý nghĩa khi chúng ta xem xét những mô tả về sự phán xét lớn cuối cùng của Đức Chúa Trời được ghi trong Khải-huyền 20:7–15. Trong câu 11 chúng ta biết rằng trước mặt Ngài “trời đất đều trốn hết.” Sau đó, trong câu 15, chúng ta biết rằng: “Người nào không được ghi tên vào sách sự sống thì bị ném xuống hồ lửa..” Điều này cho thấy, ngay cả sau khi trời và đất tan biến, hồ lửa vẫn tiếp tục ở trong chỗ của nó. Điều đó có nghĩa là, hồ lửa không nằm ở đất hay ở trời, và do đó, nó không nằm trong phạm vi phục hòa được nói đến trong Cô-lô-se 1:20. Vì vậy, lời tuyên bố trong Cô-lô-se 1:20 không đưa ra lý lẽ nào để chúng ta có thể nói rằng những ai bị đưa vào hồ lửa sẽ được phục hòa với Đức Chúa Trời sau này.
“Đời đời” là bao lâu?
Một lập luận khác được đặt ra để bác bỏ sự trừng phạt cuối cùng, không hồi kết dưới bất cứ hình thức nào. Lập luận này dựa trên cách giải thích tính từ Hy-lạp aionios, có nghĩa là “đời đời” hoặc “vĩnh cửu.” Người ta cho rằng, vì tính từ này xuất phát từ danh từ aion, [“thời kỳ”], nên sẽ mang ý nghĩa là “thuộc về một thời kỳ, hoặc kéo dài một thời kỳ.” Nói cách khác, aionios không kéo dài qua mọi thời đại, mà nó chỉ kéo dài trong một thời kỳ nào đó mà thôi.
Ví dụ như, cách giải thích này được áp dụng cho lời của Chúa Giê-xu: “Rồi những kẻ nầy [kẻ ác] sẽ vào hình phạt đời đời, còn những người công bình sẽ vào sự sống đời đời.”¹ Người ta khẳng định rằng cụm từ “hình phạt đời đời” không có nghĩa là hình phạt tuyệt đối, không có hồi kết, nhưng đó là hình phạt kéo dài trong một thời kỳ (và, điều này hàm ý rằng, hình phạt sẽ được chấm dứt sau thời kỳ đó). Tuy nhiên, tính trung thực đòi hỏi rằng “sự sống đời đời” cũng cần phải được giải thích theo cách tương tự. Có ai thành thật tin rằng đây là điều Chúa Giê-xu muốn nói?
Ngược lại, câu Kinh-thánh này chắc chắn cung cấp bằng chứng cho thấy rằng tính từ aionios không chỉ có nghĩa là “kéo dài trong một thời kỳ,” mà là “từ thời kỳ này qua thời kỳ kia,” hoặc “cho mọi thời kỳ.” Ý nghĩa của tính từ này là như nhau trong cả hai trường hợp khi nó được sử dụng để chỉ về sự sống hoặc về hình phạt.
Điều này được xác nhận bằng một cụm từ khác xuất hiện trong Tân Ước bản Hy-lạp: eis [tous] aionas ton aionon—có nghĩa là “cho mọi thời kỳ.” Cụm từ này xuất hiện khoảng 20 lần trong sách Tân Ước bản Hy-lạp, và thường được dịch là “cho đến đời đời.” Trong ngôn ngữ Hy-lạp không có cụm từ nào có thể diễn đạt mạnh mẽ hơn cụm từ này khi mô tả điều gì đó kéo dài trong mọi thời kỳ và hoàn toàn không có điểm kết thúc.
Cụm từ này cũng được sử dụng trong Khải-huyền 20:10, là phân đoạn nói về ma quỷ, con thú và tiên tri giả “Chúng nó sẽ phải chịu khổ cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời.” Hình phạt mà chúng phải chịu là hoàn toàn và tuyệt đối không chấm dứt. Không có cách diễn đạt nào mạnh mẽ hơn thế.
Nền Tảng Duy Nhất Của Sự Phục Hòa
Những ai nói về việc Sa-tan phục hòa với Đức Chúa Trời, họ không hiểu nền tảng Thánh- kinh về sự phục hòa. Trong 2 Phi-e-rơ 3:9, Phi-e-rơ nói rằng:
“Chúa . . . lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn.”
Chú ý rằng đây là sự nhẫn nại của Đức Chúa Trời đối với chúng ta, tức là nhân loại. Cũng hãy lưu ý đến điều kiện tuyệt vời, không thay đổi mà chỉ nhờ vào điều kiện đó, sự thương xót và phục hòa với Đức Chúa Trời được đưa ra: đó là sự ăn năn. Ăn năn tức là thừa nhận một cách khiêm cung, hạ mình về việc làm sai trái của bản thân, hoàn toàn quay khỏi việc làm sai trái ấy, và đầu phục một cách chân thành, không dè giữ đối với Đức Chúa Trời. Không có sự ăn năn thì không có sự phục hòa.
Có thể xảy ra trường hợp, trong đó loài thọ tạo mang ý chí nổi loạn, và ý chí đó không thể thay đổi về sau. Trong trường hợp này, loài thọ tạo không thể ăn năn được nữa. Trong Hê-bơ- rơ 12:17 chúng ta biết rằng Ê-sau “về sau ông muốn thừa hưởng phước hạnh ấy, nhưng ông đã bị từ chối, vì ông không còn cơ hội để ăn năn, dù ông đã khóc lóc van nài.” Đúng ra là, “ông không tìm ra cách nào để thay đổi ý định của mình.” Cho đến nay, liên quan đến quyền con trưởng, Ê-sau đã đưa ra một quyết định không thể thay đổi. Vì vậy, ông không có cách nào để nhận lãnh phước hạnh mà mình đã đánh mất.
Điều này cũng vĩnh viễn đúng đối với Satan và các thiên sứ của hắn. Trong cuộc nổi loạn ban đầu của chúng đối với Đức Chúa Trời, dưới ánh sáng và sự hiểu biết đầy đủ về cõi đời đời, Satan và các thiên sứ của hắn đã thực hiện một cam kết không thể thay đổi, không thể chuyển hồi. Ý chí ấy được thiết lập trong sự thù địch và chống đối vĩnh viễn, không thể hòa giải đối với Đức Chúa Trời toàn năng. Đối với Satan, hắn không có khả năng ăn năn; vì vậy cũng không có khả năng phục hòa.
Đấng Christ trở nên giá chuộc thay thế cho con người, chứ không phải cho thiên sứ
Kinh-thánh chỉ rõ rằng sự hy sinh của Đấng Christ để làm nguôi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời, sự hy sinh ấy chỉ được thực hiện vì nhân loại. Chúa Giê-xu là “Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi!”² Ngài là “của lễ chuộc tội lỗi . . . [của] cả thế gian.”³ Trong mỗi trường hợp, chữ “thế gian” trong bản dịch tiếng Anh được dịch từ chữ kosmos trong tiếng Hy-lạp. Khi xem xét thấu đáo, người ta nhận thấy rằng chữ kosmos trong tiếng Hy-lạp, xuyên suốt Tân-ước, chỉ được sử dụng riêng cho đất và loài người sống nơi đó.
Ba phân đoạn từ Tân-ước có thể được trích dẫn để xác nhận điều này. Trong Rô-ma 5:12 Phao-lô nói rằng “bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian [kosmos].” Chữ một người, dĩ nhiên chỉ về A-đam. Satan và các thiên sứ của hắn đã phạm tội trên thiên đàng, nhưng tội lỗi vẫn ở bên ngoài thế gian. Tội lỗi trong thế gian khởi đầu từ loài người trên đất.
Một lần nữa trong 2 Phi-e-rơ chúng ta biết rằng, liên quan đến sự phán xét của Đức Chúa Trời trên nhân loại vào thời Nô-ê, rằng Đức Chúa Trời “chẳng tiếc thế gian xưa, chỉ gìn giữ Nô- ê”⁴ ; và rằng “thế gian bấy giờ cũng bị hủy phá như vậy, là bị chìm đắm bởi nước lụt.”⁵ Trong cả hai trường hợp này, rõ ràng là thế gian chỉ về nhân loại sống trên đất. Satan và các thiên thần sa ngã của hắn không được bao gồm trong đó.
Tiếp theo sau đó, khi Chúa Giê-xu chuộc tội bằng sự chết của mình trên thập giá cho tội lỗi của “thế gian,” Ngài chuộc tội cho loài người trên đất, chứ không phải cho Sa-tan và các thiên sứ của hắn. Điều này phù hợp với mặc khải trong Hê-bơ-rơ 2:14,16: “Vậy thì, vì con cái có phần về huyết và thịt, nên chính Đức Chúa Giê-xu cũng có phần vào đó, hầu cho Ngài bởi sự chết mình mà phá diệt kẻ cầm quyền sự chết, là ma quỉ . . . Vì quả thật không phải Ngài đến vùa giúp các thiên sứ, bèn là vùa giúp dòng dõi của Áp-ra-ham.” Chúa Giê-xu, bởi việc mang lấy bản chất xác thịt, đã trở nên hậu tự của Áp-ra-ham—và do đó Ngài cũng là hậu tự của A- đam. Ngài là “A-đam cuối cùng.”⁶ Ở trên thập giá, Ngài trở nên của lễ chuộc tội thay thế cho toàn bộ dòng dõi của A-đam. Nhưng Ngài đã không mang lấy bản chất của thiên sứ, và Ngài đã không trở nên của lễ chuộc tội cho các thiên sứ. Do đó, không có cơ sở nào trong công lý thiên thượng để Ngài chuộc tội cho các thiên sứ. Thật vậy, Chúa Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự không phải để cứu ma quỷ mà ngược lại, để “hủy diệt . . . ma quỷ.”⁷ Còn điều gì rõ ràng hơn thế?
Vì lý do này, Đấng Christ—Ngài sẽ trở lại trong vinh hiển vào cuối thời đại này—Đấng ấy đã được bày tỏ khi Ngài phán với “dê” ở bên tả: “Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi ta; đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho ma quỉ và những quỉ sứ nó.”⁸ Đây là đích đến đời đời, chắc chắn, chúng không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nơi này không dành cho con người. Con người không cần phải đến đó. Nếu họ ăn năn và đầu phục Đức Chúa Trời, Ngài sẽ dung thứ cho họ. Đối với họ, có một giải pháp thay thế—nếu họ chấp nhận giải pháp ấy. Nhưng không có giải pháp thay thế dành cho Sa-tan và các thiên sứ của hắn.
Những ai ủng hộ Satan là kẻ thù của Đức Chúa Trời
Trong lĩnh vực thuộc linh, không có chỗ cho sự trung lập. Chúa Giê-xu phán: “Ai không ở với Ta thì nghịch cùng Ta.”⁹ Chỉ có hai thái độ xảy ra: đầu phục Đức Chúa Trời, hoặc chống đối Ngài. Người nào bằng sự ăn năn mà đầu phục Đức Chúa Trời thì được tha khỏi hồ lửa. Tất cả những người khác, tức là những ai không đầu phục Chúa, đều là kẻ chống đối Ngài. Họ tất yếu ở trong mối liên hệ với ma quỷ và các thiên sứ của hắn. Bởi sự liên hệ này, họ phải chịu cùng một số phận—là hồ lửa. Tất cả những ai đã từng bước vào hồ lửa này—dầu là thiên sứ hay con người—họ đều không có con đường quay trở lại. Hồ lửa ấy là “cho đến đời đời.”
Ở đây tồn tại mối nguy hiểm khó nhận thấy của học thuyết “hòa giải” đối với những người tự xưng là Cơ đốc nhân. Trong Kinh-thánh, Đức Chúa Trời phán rõ hai điều. Thứ nhất, Đức Chúa Trời hoàn toàn công bằng và không thiên vị. Thứ hai, Đức Chúa Trời đã kết án ma quỷ và các thiên sứ của hắn bằng hình phạt lửa đời đời. Bất kỳ người nào đặt câu hỏi về điều thứ hai cũng tự động đặt câu hỏi về điều thứ nhất.
Nếu bạn phủ nhận việc ma quỷ bị hình phạt bằng lửa đời đời, bạn mặc nhiên chối bỏ lẽ thật và công lý của Đức Chúa Trời. Bằng sự dối gạt tinh vi này, Sa-tan đã lừa dối khiến bạn đứng về phía hắn mà chống lại Đức Chúa Trời. Bạn không thể đồng thời vừa bênh vực cho Sa-tan vừa làm bạn của Đức Chúa Trời. Nếu không nhận ra điều đó, giờ đây bạn đang đứng cạnh kẻ thù của Đức Chúa Trời. Nếu bạn vẫn giữ thái độ này, công lý của Đức Chúa Trời đòi hỏi Ngài phải đối với bạn như đối với ma quỷ. Rồi một ngày nào đó, bạn sẽ nghe thấy những lời đáng sợ từ Ngài: “Hãy lui ra khỏi Ta. . . đi vào lửa đời đời.”
Trước khi quá muộn, hãy nhớ lại rằng lửa đời đời chưa bao giờ được chuẩn bị cho bạn. Bạn không cần phải đi vào đó. Hãy thay đổi tâm trí của bạn. Hãy từ bỏ mối liên hệ với ma quỷ. Hãy từ bỏ sự chống đối của bạn đối với Chúa. Hãy hạ mình. Hãy phục tùng lẽ thật và sự công chính của Đức Chúa Trời. Khi làm như vậy, bạn mở ra con đường để Đức Chúa Trời phục hồi ân điển, lòng thương xót và sự bình an của Ngài dành cho bạn. Hãy xem xét những lời của Đa- vít:
“Lạy Đức Giê-hô-va, lẽ nào con không ghét những kẻ ghét Chúa? Và không ghê tởm bọn phản nghịch Chúa? Con ghét cay ghét đắng chúng, Kể chúng như kẻ thù của con vậy. Đức Chúa Trời ôi! Xin tra xét con và biết lòng con; Xin thử nghiệm con và biết tư tưởng con; Thử xem con có lối ác nào không, Và dẫn con vào con đường đời đời.” (Thi-thiên 139:21-24)
Lời thừa nhận này của Đa-vít, hãy khiến nó trở nên lời thừa nhận của chính bạn khi nói về Sa-tan và các thiên sứ của hắn. Hãy cầu xin Chúa tra xét tấm lòng bạn. Hãy khước từ mọi lối ác. Hãy trở lại con đường đời đời.
Hai Mặt Đồng Xu của Đức Chúa Trời: “Sự Nhân Từ” và “Sự Nghiêm Khắc”
Bức tranh về bản chất và cách mà Đức Chúa Trời đối với con người, Kinh-thánh mô tả bức tranh ấy giống như một đồng xu. Đồng xu ấy bao gồm hai mặt đối lập nhưng tạo nên một thể hoàn chỉnh. Phao-lô trình bày rõ ràng hai mặt này như sau: “Vậy, hãy xem sự nhân từ và sự nghiêm khắc của Đức Chúa Trời.”¹⁰ Đây là hai mặt: sự nhân từ và sự nghiêm khắc. Một mặt là lòng thương xót và ân điển, mặt khác là cơn thịnh nộ và sự phán xét của Ngài.
Xóa bỏ một mặt của đồng xu khiến cho đồng xu ấy không hoàn chỉnh và không có giá trị. Cũng tương tự như thế với hình ảnh của Đức Chúa Trời được mô tả trong Kinh-thánh. Luôn luôn nói về sự nhân từ nhưng không bao giờ nói về sự nghiêm khắc—luôn nói về sự thương xót và ân điển, nhưng không bao giờ nói về cơn thịnh nộ và sự phán xét—đây chính là việc bỏ đi một mặt của đồng xu, và làm cho bức tranh mà Kinh-thánh mô tả về Đức Chúa Trời trở nên không đầy đủ và không có giá trị. Những ai nói về Đức Chúa Trời như thế là không trung tín với Ngài, và không công bằng với con người. Khi làm như vậy, họ trình bày sai lạc về Đức Chúa Trời và làm cho người ta lầm đường lạc lối.
¹ Ma-thi-ơ 25:46
² Giăng 1:29
³ 1 Giăng 2:2
⁴ 2 Phi-e-rơ 2:5
⁵ 2 Phi-e-rơ 3:6
⁶ 1 Cô-rinh-tô 15:45
⁷ Hê-bơ-rơ 2:14
⁸ Ma-thi-ơ 25:41
⁹ Ma-thi-ơ 12:30
¹⁰ Rô-ma 11:22
Mã số: TL-L032-100-VIE